Tịnh Tu Ba Nghiệp

Tham, sân, tà kiến thuộc ý nghiệp. Nói hư dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói hung ác thuộc khẩu nghiệp. Sát sanh, trộm cắp, dâm dục thuộc thân nghiệp.

Phàm người có chí muốn cầu đại đạo, trước tiên cần phải tu ba nghiệp cho thanh tịnh. Về sau, trong bốn oai nghi lần lượt vào đạo, nhẫn đến khi sáu căn đối trần tùy duyên liễu đạt, cả hai cảnh trí đều lặng thầm hợp với ý chỉ diệu huyền.

A.- Thế nào là tịnh tu thân nghiệp?

Tự xét sâu xa trong bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, kềm thúc ba tội không cho sơ thất. Từ bi nuôi nấng chẳng hại mạng sống, tất cả loài hàm thức trên không dưới nước, không kể lớn nhỏ đều thương yêu bảo bọc cho đến loài bò bay máy cựa cũng không làm tổn hại. Gặp kẻ nguy nan ân cần cứu tế, dùng phương tiện độ khiến cho giải thoát. Đối với tiền bạc của cải người khác không cho thì không lấy, nhẫn đến vật của quỉ thần làm chủ, dù là cây kim ngọn cỏ vẫn không cố phạm. Gặp người ăn xin nghèo khó, tùy theo tiền của mình có, dùng lòng cung kính bố thí khiến cho họ được an ổn, còn mình không cầu sự báo ơn. Suy nghĩ như vầy: Chư Phật quá khứ trải vô lượng kiếp, thực hành bố thí cho cả voi ngựa bảy báu, đầu mắt não tủy nhẫn đến xả bỏ thân mạng, không chút nuối tiếc. Nay ta cũng vậy, tùy theo khả năng bố thí, hoan hỉ cúng dường, tâm không lẫn tiếc. Đối với nữ sắc tâm không nhiễm trước. Phàm phu điên đảo bị dục làm say, đam mê phóng túng, không biết lỗi lầm của sự dâm dục, như vin cành hoa không biết có ẩn rắn độc. Người trí xem dục như miệng rắn độc, móng vuốt gấu hùm, lửa bùng sắt nóng cũng chẳng dụ được. Cột đồng giường sắt cháy lưng chín ruột, máu thịt bầy nhầy, đau thấu tâm tủy. Quán sát như thế chỉ khổ không vui. Túi da đựng phẩn tích chứa máu mủ, bề ngoài giả dối giồi phấn thoa hương, bên trong một mùi hôi thúi, dơ bẩn chảy ra làm chỗ nương ở của dòi nhặng, thúi tha đến lỗ cầu xí cũng không bì kịp. Người trí xét đó, chỉ thấy lông tóc, móng răng, da mỏng da dày, máu thịt, mồ hôi nước mắt, nước dãi, nước miếng, mủ mỡ, gân mạch não mô, đàm vàng đàm trắng, gan mật cốt tủy, phổi thận, lá lách, dạ dày, tim, mỡ nước, bàng quang, ruột già ruột non, sanh tạng thục tạng, các đường tiểu tiện. Những vật như thế đều không có Ngã, mà do gió thức cổ động hư vọng sanh ra, ngôn ngữ dối trá, nói làm người bạn thân, kỳ thật oán giận ghét ghen làm cho hư đức chướng đạo, đó là tội lỗi nặng nhất phải nên xa lìa như tránh giặc oán. Bởi thế, người trí xem đó tưởng như rắn độc, thà gần rắn độc, chẳng gần nữ sắc. Vì sao? Rắn độc hại người chỉ chết một đời, nữ sắc trói buộc trăm ngàn muôn kiếp bị các độc hại khổ đau vô cùng, phải nên xét nghĩ chớ nên gần gũi.

Vì thế người trí cần phải kiểm điểm ba lỗi, chừa bỏ lỗi lầm, trái ác theo thiện: chẳng giết chẳng trộm, phóng sanh bố thí, không làm việc dâm dục bẩn thỉu, thường tu hạnh thanh tịnh. Ngày đêm chuyên cần hành đạo lễ bái, nương về Tam Bảo, chí cầu giải thoát, đối với thân mạng của cải phải tu ba pháp kiên cố. Biết thân hư huyễn không có Tự tánh, sắc tức là không cái gì là ngã? Tất cả các pháp chỉ có giả danh không có nhất định. Thân này của ta, bốn đại năm uẩn mỗi mỗi đều chẳng phải ngã, hợp lại cũng không, vô minh không rõ, chấp lầm là ngã. Sát sanh, trộm cắp, dâm dục phóng túng, suốt ngày lẫn đêm không ngừng tạo nghiệp. Dù không chân thật nhưng thiện ác báo ứng vẫn như bóng tùy hình. Lúc quán như thế, chẳng cầu sự bất chánh để nuôi thân mạng, phải tự quán thân tưởng như rắn độc, vì để trị bệnh nên nhận bốn sự cúng dường([1]). Thân mặc y phục như che ghẻ lở. Miệng ăn thức ngon như bệnh uống thuốc. Tiết kiệm thân miệng không sanh sự xa hoa thái quá, nghe nói ít muốn rất thích tu hành. Cho nên kinh nói: “Bậc đầu-đà ít muốn khéo biết vừa biết đủ, người ấy có thể vào đạo Hiền Thánh.” Vì sao? Chúng sanh ở trong đường ác([2]) trải vô lượng kiếp thiếu thốn áo cơm, kêu la thảm thiết, đói lạnh khổ sở, xương da dính nhau. Nay ta tạm thiếu chút đỉnh chưa phải là khổ. Thế nên người trí quí pháp khinh thân, siêng năng cầu pháp chí đạo, đến thân mạng cũng chẳng đoái hoài, đây gọi là tịnh tu thân nghiệp.

B.- Thế nào là tịnh tu khẩu nghiệp?

Tự xét sâu xa bốn lỗi của miệng là căn bản sanh tử, tăng trưởng điều ác, che lấp muôn hạnh, gây chuyện thị phi. Thế nên, người trí muốn nhổ sạch gốc sanh tử, dứt trừ hư vọng, phải tu bốn như thật ngữ, đó là các lời ngay thẳng, dịu dàng, hòa hợp và như thật. Bốn thật ngữ này là hạnh của người trí. Vì sao? Lời ngay thẳng hay trừ lời thêu dệt, lời dịu dàng hay trừ lời hung ác, lời hòa hợp hay trừ lời hai lưỡi, lời như thật hay trừ lời hư dối.

Lời ngay thẳng có hai thứ: một là nói đúng pháp khiến cho người nghe tin hiểu rõ ràng, hai là nói đúng lý khiến cho người nghe trừ hết nghi lầm.

Lời dịu dàng cũng có hai: một là lời an ủi khiến cho người nghe vui vẻ gần gũi, hai là tiếng cung thương thanh nhã khiến cho người nghe yêu thích tu tập.

Lời hòa hợp cũng có hai: một là sự hòa hợp, nghĩa là thấy người đấu tranh, can gián khuyên nên xả bỏ, chẳng tự khen mình, trái lại nhún nhường kính vật; hai là lý hòa hợp, nghĩa là thấy người thối tâm Bồ-đề ân cần khuyên tấn, khéo léo phân biệt Bồ-đề phiền não, bình đẳng nhất tướng. Nếu tâm hành giả lui sụt thì dùng đức độ để vỗ về, siêng năng đến trước người ấy khéo nói về việc mê ngộ.

Lời đúng như thật cũng có hai thứ: một là sự thật, nghĩa là có thì nói có, không thì nói không, phải thì nói phải, quấy thì nói quấy; hai là lý thật, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Niết-bàn Như Lai thường trụ bất biến.

Thế nên người trí thực hành bốn thật ngữ ấy, quán sát chúng sanh nhiều kiếp đến nay vì bốn lỗi này làm cho điên đảo trôi chìm sanh tử khó được xuất ly. Nay ta muốn nhổ gốc rễ của nó, quan sát khẩu nghiệp kia do môi răng, tiếng vang của yết hầu cuống rốn, gió thức kích động phát ra tiếng nói. Do tâm làm nhân duyên sanh hai thứ hư thật khác nhau, thật thì lợi ích, hư thì tổn mất. Thật là khởi gốc lành, hư là sanh cội ác. Cội gốc thiện ác là do lời nói nơi cửa miệng, nói lời thiện là tứ chánh, nói lời ác là tứ tà. Tà thì bị khổ, chánh thì được vui. Thiện là duyên trợ đạo, ác là gốc hư đạo. Thế nên người chánh phải có tâm hộ trì việc chánh, dùng lời thật để lập thân, tụng kinh niệm Phật quán sát thật tướng của lời nói vốn không tồn tại, nói nín bình đẳng. Đấy gọi là tịnh tu khẩu nghiệp.

C.- Thế nào là tịnh tu ý nghiệp?

Do niệm tà làm nhân duyên hay sanh ra muôn điều ác. Nhờ chánh quán làm nhân duyên hay khởi lên vạn điều thiện. Cho nên kinh nói: “ba cõi không có pháp riêng, chỉ do nhất tâm tạo tác”, nên biết tâm là căn bản của vạn pháp vậy.

Thế nào là tà niệm? Vô minh chẳng rõ chấp lầm là ngã, ngã kiến kiên cố tham sân tà kiến chấp càn ngoại cảnh sanh ra các thứ đắm nhiễm. Nên kinh nói: “Nhân vì có ngã bèn có ngã sở. Nhân vì ngã sở khởi ra sáu mươi hai kiến chấp đoạn thường([3]), chín mươi tám sử kiến tư([4]) tương tục gây nên sanh tử luân hồi trong ba cõi chẳng thôi.” Phải biết tà niệm là gốc của các điều ác, thế nên người trí phải chế ngự mà không theo nó.

Thế nào là chánh quán? Ta người không khác, sắc tâm chẳng hai; Bồ-đề phiền não bản tánh không khác, sanh tử Niết-bàn bình đẳng nhất chiếu. Do đó, kinh nói: “Lìa ngã, ngã sở, quán pháp bình đẳng, ngã và Niết-bàn cả hai đều không.” Phải biết các pháp chỉ có danh tự. Cho nên kinh nói: “Cho đến Niết-bàn cũng chỉ có danh tự.” Lại nói: “Văn tự tánh ly, danh tự cũng không.” Vì sao? Pháp chẳng tự có tên, giả đặt tên để gọi pháp, pháp đã chẳng phải pháp, danh cũng chẳng phải danh, danh chẳng đúng với pháp, pháp chẳng đúng với danh, danh pháp không đúng, tất cả không tịch. Cho nên kinh nói: “Pháp không có danh tự vì ngôn ngữ dứt.” Thế nên diệu tướng thì bặt danh, chân danh thì chẳng phải tự. Vì sao? Vô vi tịch diệt vi diệu tột cùng bặt tướng lìa danh, đường tâm ngôn dứt. Phải biết đó là điểm quan yếu của sự về nguồn chánh quán. Vì thế người trí dùng chánh quán làm nhân duyên để muôn hoặc([5]) đều trừ, cảnh trí đều quên, nguồn tâm thanh tịnh. Đấy gọi là tịnh tu ý nghiệp.

Các điều kể trên đây, trong bốn oai nghi lúc sáu căn đối với trần cảnh phải tùy duyên liễu đạt để theo thứ lớp mà vào đạo vậy.

 

([1]) Bốn sự: y phục, phòng nhà, thức ăn, thuốc men.

([2])  Đường ác: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.

([3])  Sáu mươi hai kiến chấp đoạn thường: chấp ngã là sắc, ngã khác sắc, ngã trong sắc, sắc trong ngã, cho đến thức cũng vậy.

5ấm x 4 = 20; 20 x 3 đời = 60; 60 + đoạn và thường = 62.

([4]) Chín mươi tám sử kiến tư:

88 kiến hoặc cộng với 10 tư hoặc thành 98.

([5]) Hoặc: Chỉ cho phiền não.

Răn Ý Kiêu Sa

 

Cơm áo có ra là do trồng lúa nuôi tằm. Khẩn đất đào mương, luộc nấu ngài tằm, nấu chín làm ra tổn thương sanh mạng, chúng phải chịu chết để giúp thân ta. Chỉ sợ đói lạnh, chẳng biết chết là khổ, nỡ giết hại loài khác để cung cấp cho mình. Ôi, đau đớn thay! Công người nông phu tích chứa sức lực sâu dày, đâu riêng gì loài hàm thức thiệt mạng, cũng còn là của tín thí khó tiêu. Tuy đã xuất gia nào có đức gì? Chỉ muốn thọ nhận của tín thí để nuôi thân, đâu biết xét suy đức mình so với công ấy. Luận Tỳ-ni nói: “Thọ nhận của tín thí dùng không đúng pháp, buông lung tâm ý, bỏ phế sự tu đạo nghiệp, sẽ bị đọa vào tam-đồ thọ sự khổ nặng.”

Phàm muốn vượt ra ba cõi mà chưa có hạnh tuyệt trần, uổng làm thân nam tử không có chí trượng phu. Nhưng vì suốt ngày chộn rộn, tối lại hôn mê, đạo đức chưa tu, cơm áo lãng phí. Trên thì trái đại đạo, dưới thì thiếu lợi sanh, giữa thì phụ bốn ơn, thật đáng hổ thẹn! Do đó, người trí phải khá xét suy, thà có pháp mà chết còn hơn không pháp mà sống, đâu nên luống tự si mê quí thân khinh pháp.

 

Nghi Thức Lập Chí Mộ Đạo

Trước tiên phải quán ba cõi để sanh tâm nhàm lìa. Kế gần bạn lành cầu đường giải thoát. Đối với Sư trưởng, sớm thăm tối viếng luôn gìn lễ độ. Xét kỹ trái thuận thế nào để biết hầu hạ dưỡng nuôi. Hỏi điều phải làm để biết phụng sự. Chiêm ngưỡng không lười vì sanh lòng ân cần kính trọng. Luôn luôn lấy sự quyết liễu tâm yếu làm việc chánh tu. Theo sự hiểu biết trình bày để rõ tà chánh. Nghiệm theo khí lực để biết sống chín. Thấy bệnh sanh nghi phải dùng thuốc hay điều trị. Suy nghĩ tột cùng vì cầu chân lý. Ngày đêm chuyên cần, sợ duyên sai sử. Chuyên tâm một hạnh để thành đạo nghiệp. Vì pháp quên thân là do lòng biết ơn. Như lòng tin của mình còn yếu kém, ý chí không chuyên, hạnh thô hiểu cạn, phóng túng theo cơ, chạm việc thì nhân việc sanh tâm, duyên không thì y theo không mà dứt niệm. Đã chẳng phải bình đẳng quán về động tịnh thì thuận theo sự đắc thất của có không. Nhưng đạo không có cấp bậc, tùy theo công phu mà có vị thứ.

 

THIỀN TÔNG VĨNH GIA TẬP

Thiền Sư Huyền Giác

Tập này được chia làm mười chương:

1- Nghi thức lập chí mộ đạo: Phàm muốn tu đạo trước tiên phải lập chí và học nghi tắc hầu Thầy. Do đó chương đầu tiên nói về nghi thức mộ đạo.

2- Răn ý kiêu sa: Ban đầu dù đã lập chí tu đạo khéo biết qui nghi. Nếu ba nghiệp kiêu sa thì vọng tâm khuấy động làm sao được định. Do đó chương thứ hai nói về răn ý kiêu sa.

3- Tịnh tu ba nghiệp: Trước đã lược nêu cương yếu về việc ngăn cấm kiêu sa. Nay kiểm điểm kỹ lưỡng lại khiến cho lỗi chẳng sanh. Do đó chương thứ ba nói về tịnh tu ba nghiệp.

4- Bài tụng về Xa-ma-tha (Chỉ): Trước đã kiểm trách thân và miệng khiến lỗi thô không sanh. Kế đến phải vào cửa tu đạo, theo thứ tự thì chẳng ra ngoài định tuệ, năm loại móng tâm, sáu khoa liệu giản. Do đó chương thứ tư là bài tụng về Xa-ma-tha.

5- Bài tụng về Tỳ-bà-xá-na (Quán): Chẳng phải giới thì không thiền, chẳng phải thiền thì không tuệ. Trên đã tu định, định lâu thì tuệ sáng. Do đó chương thứ năm là bài tụng về Tỳ-bà-xá-na.

6- Bài tụng về Ưu-tất-xoa (Xả): Tu riêng môn định, định lâu bị chìm; học riêng môn tuệ, tuệ nhiều tâm động. Do đó chương thứ sáu là bài tụng về Ưu-tất-xoa, định tuệ cân bằng khiến không chìm không động, định tuệ quân bình buông xả nhị biên([1]).

7- Cấp bậc lần lượt của ba thừa: Định tuệ đã quân bình thì tịch mà thường chiếu, tam quán nhất tâm thì nghi nào chẳng trừ, trí chiếu nào không viên mãn. Tự mình dù đã hiểu rõ ràng nhưng thương người chưa ngộ, ngộ có cạn sâu. Do đó chương thứ bảy nói về cấp bậc lần lượt của ba thừa.

8- Sự lý không hai: Ba thừa ngộ lý, không lý nào chẳng cùng. Tột lý ở nơi sự, rõ sự tức lý. Do đó chương thứ tám nói sự lý không hai, tức sự là chân dùng để trừ kiến chấp điên đảo.

9- Thư khuyên bạn hữu: Sự lý đã dung, nội tâm tự sáng, lại thương người học đạo đời sau luống uổng tấc bóng. Do đó chương thứ chín là thư khuyên bạn hữu.

10- Văn phát nguyện: Khuyên bạn tuy là thương người nhưng còn để ý chú trọng đến một người, tâm chưa cùng khắp. Do đó chương thứ mười nói về văn phát nguyện thệ độ tất cả vậy.

([1]) Chẳng bị bên Không làm lặng chìm, chẳng bị bên Có làm dao động, chẳng dừng chẳng động thẳng vào Trung đạo.

HƯỚNG DẪN TỌA THIỀN

Thiền định là phương pháp giúp ta định tâm và diệt trừ Bản Ngã. Cuối cùng,
chúng ta sẽ chấm dứt vô minh và chứng đạt giải thoát giác ngộ. Mục đích tối hậu
của thiền định là đạt được Vô Ngã – Đại Bi

I – CĂN BẢN:
Bạn phải hiểu rõ từng bước thực tập thiền để giúp bạn đạt được kết quả tốt
nhất và tránh phản ứng phụ nhỏ nhặt nhất. Tu tập thiền định cần trang bị ba tư
lương cần yếu cơ bản là: Đạo Đức – Công Đức – Khí Công.
1 – Đạo Đức
– Đó là sự thánh thiện, trong sáng nhất của nội tâm, lòng thương yêu chúng
sinh và tâm khiêm hạ tột cùng.
– Đạo đức là đỉnh cao của thiền định và hợp nhất với thiền định một cách
vững chắc. Cho dù bạn nổ lực nhưng thiếu đạo đức, bạn sẽ đổ vỡ về nhân
cách và tu tập.
– Ba tâm hạnh căn bản của đạo đức là: Lòng Tôn Kính Phật – Từ Bi – Khiêm
Hạ.
2 – Công Đức
Đó là việc làm cho mọi người an vui và đem đến cho mọi người đạo đức và
đạo lý.
– Gieo gì gặt nấy. Giúp người an vui sẽ đem lại kết quả an định nội tâm khi
bạn hành thiền.
– Nhiều người hiểu lầm rằng tách mình ra khỏi cuộc đời sẽ dễ thanh tịnh tâm.
– Nhưng sự thật thì việc giúp mọi người hiểu Phật Pháp và hạnh phúc lại là
nhân tố cơ bản và quyết định cho người tu thiền đạt kết quả tốt.
3 – Khí Công
Đó là sự luyện tập thường xuyên để duy trì tiềm lực, không những để thần
kinh mà còn hỗ trợ cho việc nhập định được dễ dàng.

II – CÁCH THỰC HÀNH:

Nếu là Phật tử, bạn hãy quỳ lạy Phật ba lễ. Trải vải hay đệm chiếu trên sàn.
Dùng tọa cụ lớn hơn diện tích ngồi nhằm ngăn hơi ẩm dưới đất và được êm ái.
Không bao giờ dùng bồ-đoàn ngồi thiền. Bồ-đoàn tạo cho bạn cảm giác dễ chịu
và thẳng lưng. Tuy nhiên ngồi thẳng lưng làm cho bạn không cố gắng giữ tư thế
đẹp. Sự thật là khi nỗ lực giữ lưng thẳng thường xuyên, bạn sẽ có sức mạnh tinh
thần về sau. Hơn nữa, khi trọng lượng cơ thể chia ra bốn phần đều nhau (mông
và đùi), bạn sẽ thấy ngày càng dễ chịu hơn. Trái lại, ngồi bồ-đoàn làm cho bạn đau
cấn bởi vì trọng lượng cơ thể trải hai bên mông không đồng đều. Không có bồ-
đoàn, một chân của bạn vênh lên. Đừng lo lắng lắm vì dần dần hai chân sẽ hạ
xuống bằng nhau. Không có bồ-đoàn, bạn có thể ngồi thiền thoải mái ở bất cứ đâu.
Không mặc áo quần chật hay hở hang. Mặc áo tràng và ngồi thiền ở chánh điện
hay nơi nào trang nghiêm và yên tĩnh. Ngồi nơi ánh sáng dịu và không có gió.
Nên có thời khóa ngồi thiền hằng ngày. Nếu không, ngồi thiền lúc nào thuận
tiện và sau bữa ăn khoảng một tiếng đồng hồ. Không bao giờ ngồi thiền khi còn
no bụng. Không bao giờ khoe hay ngồi thiền cho mọi người thấy để tránh tổn
phước về sau.
Ngồi kiết già: Gát chân trái lên chân phải. Bắt chân phải lên chân trái. Cố gắng
ngồi kiết già để khóa chặt cả thân lẫn tâm.
Không ngồi bán già. Khi tréo chân kiết già, vì chân phải đè lên khớp bàn chân
trái, bạn sẽ thấy chân đau đớn và dễ bỏ cuộc. Tạm thời bạn có thể dùng cái khăn
kê dưới bàn chân trái. Người già gân xương cứng nên xoa bóp trước khi ngồi thiền.
Hai chân đặt lên đùi vừa phải, không sát cũng không xa hông.
Giữ lưng thẳng, không chồm tới, không ưỡn ngực để tránh sự gồng cứng thân
và căng thẳng tâm. Giữ vai cân bằng, xuôi tự nhiên. Đặt bàn tay trái nằm trên bàn
tay phải. Hai bàn tay ngữa lên và đặt ngay trên hai gót chân. Hai đầu ngón cái
chạm nhẹ vào nhau. Giữ hai lòng bàn tay thẳng, đẹp. Hai cánh tay không ép sát
hông.
Tuy có vẻ mất công, nhưng đó chính là điều kiện làm tăng sức mạnh. Nếu hai
cánh tay lơi lỏng, tựa vào hông sau này sẽ trở thành chướng ngại khi vào định.
Không ngẫng đầu lên. Hơi cúi xuống một chút. Không nghiêng trái hay phải.
Lưỡi để trên chân răng. Ngậm kín miệng tự nhiên. Mở mắt nhìn vào một điểm
trước mặt, cách khoảng 60cm – 70cm.
Lúc bắt đầu tu tập, bạn nên mở mắt để nhận biết thân mình có dao động, chao
nghiêng hay không – điều này giúp bạn về sau không bị vọng tưởng. Tuy nhiên,
không nên chú ý ngoại cảnh. Chỉ khi nào bạn đạt được Chánh niệm tỉnh giác, bạn
mới có thể nhắm mắt.
Sau khi ngồi đúng tư thế, khởi ba lời nguyện như sau:
– Con nguyện luôn luôn tôn kính chư Phật.
– Con nguyện luôn luôn thương yêu tất cả chúng sinh, hữu hình hay vô
hình, loài người, chim thú, chúng sinh trong địa ngục và cả đến cỏ cây.
– Con nguyện luôn luôn khiêm hạ đối với mọi người và chỉ xem mình như
cát bụi.

III. ĐIỀU THÂN

Sau đó, chúng ta thực hành việc điều thân.
1 – Biết rõ toàn thân.
Giai đoạn này kéo dài vài tháng cho đến vài năm. Tâm luôn luôn quay vào
kiểm soát, biết rõ toàn thân để điều chỉnh các sai lệch của thân như lưng bị chùng,
vai lệch, đầu nghiêng, hai bàn tay lỏng lẻo, mắt láo liêng, hai cánh tay ép sát vào
hông…
Nếu bạn ngồi sai tư thế kiết già mà tự mình không nhận ra được có nghĩa là
Cái Biết của bạn còn yếu. Nếu bạn cố dằn ép để biết, nội lực sẽ tác động lên bộ não
làm cho bạn bị nhức đầu.
Bạn nên biết rõ toàn thân nhẹ nhàng và tự nhiên vì thân dao động, gồng cứng
hay dằn ép làm cho não bị ảnh hưởng theo. Trong khi biết rõ toàn thân, tâm biết
nhiều ở phần bụng dưới, hai chân và hai lòng bàn tay.
Lợi ích của việc biết rõ toàn thân như sau:
– Giúp thể trạng tốt hơn.
– Không bị buồn ngủ.
– Không bị vọng tưởng chi phối.
– Huân tập thành sức tỉnh giác để kiểm soát tâm dễ dàng.
2. – Giữ thân mềm mại, bất động.
Song song với việc biết rõ toàn thân, phải giữ thân mềm mại mà bất động, toàn
thân gồng cứng, nhúc nhích, mềm mại hay không. Phải luôn luôn kiểm soát từng
bộ phận của thân bạn, từ bắp thịt, ngón tay, ngón chân, đùi, … có mềm mại bất
động chưa.
Chúng ta gọi việc kiểm tra thường xuyên như thế là công phu điều thân. Việc
bạn tác ý giữ thân mềm mại bất động lâu ngày, sẽ giúp cho việc nhiếp tâm vào
định sau này.
Sau khi kiểm tra tư thế ngồi kiết già đúng và đẹp là việc kiểm tra toàn thân bạn
có mềm mại bất động hay chăng. Thân càng yên, tâm càng lắng và ổn định dần,
stress càng nhanh chóng được giải tỏa. Thân càng trang nghiêm, tâm bạn càng sâu
sắc.
Nếu bạn biết mờ mờ ảo ảo, bạn sẽ dễ bị hôn trầm. Khi buồn ngủ, bạn nên tìm
lý do vì sao, có phải bạn làm việc quá sức, cơ thể mệt mõi, bạn ngủ không đủ
giấc….
Thân và tâm chỉ là một thể thống nhất. Kiểm soát tư thế là việc điều thân bước
đầu. Kiểm soát tư thế mềm mại bất động hay không là điều thân ở mức độ sâu
hơn. Bạn giữ được thân mềm mại bất động, bạn sẽ giữ được tâm bất động, nhất là
khi phải đối diện nghịch cảnh.
Điều thân đúng là bắt đầu và cũng là vĩnh viễn. Bạn phải thực hành điều thân
cẩn thận và chuyên tâm khoảng một tháng (30 ngày) và mỗi lần thực tập 30 phút.

IV. QUÁN TƯỞNG.
Sau khi điều thân, bạn sẽ tự nhắc mình như sau:
– Thân này là vô thường
– Tâm này là vô ngã

V. HƠI THỞ.
– Hơi thở vào, biết rõ hơi thở vào. Hơi thở ra, biết rõ hơi thở ra.
– Hơi thở vào dài, biết rõ hơi thở vào dài. Hơi thở vào ngắn, biết rõ hơi thở
vào ngắn.
Bạn nên nhớ một điều quan trọng: Bạn biết rõ mà không can thiệp vào hơi thở,
không điều khiển hơi thở. Bạn chỉ biết rõ hơi thở bạn trong lúc ngồi thiền mà thôi.
Bạn cũng nên tránh 2 cực đoan về hơi thở là:
– Không biết rõ về hơi thở.
– Biết và can thiệp vào hơi thở.
Con đường trung đạo của phuơng pháp hơi thở là: “Biết rõ một cách thụ động
mà không hề điều khiển hơi thở”. Khi bạn điều khiển hơi thở, sự tác ý này làm cho
hơi thở bị bế tắc và bản ngã tăng trưởng. Nội tâm bạn yên tĩnh, hơi thở bạn càng
êm dịu và dài.
Sau khi biết rõ hơi thở, bạn nên chú tâm phần bụng và dưới chân để giúp khí
lực lắng xuống và giúp cho não ổn định trong sự tu tập.
Những điều chúng ta thực hành là:
– Biết rõ toàn thân.
– Phải biết rõ vùng bụng và vùng chân nhiều.
– Biết rõ ràng hơi thở không hề lầm lẫn, mơ hồ.

VI. CHƯỚNG NGẠI.
Nếu gặp chướng ngại như vọng tưởng, ảo giác, hôn trầm, quay về biết rõ toàn
thân. Nếu chướng ngại vẫn còn, phải hiểu rằng nghiệp đã chi phối việc tu tập, bạn
nên quán nghiệp, thầm sám hối những lỗi lầm quá khứ.

VII. HƠI THỞ RA VÀO VÀ THIỀN ĐỊNH.
Hơi thở vào, biết rõ toàn thân. Hơi thở ra, biết rõ toàn thân.
Hơi thở vào, biết rõ thân này là vô thường. Hơi thở ra, biết rõ thân này là vô
thường.
Hơi thở vào, nguyện lòng thương yêu chúng sinh. Hơi thở ra, nguyện lòng
thương yêu chúng sinh.
Hơi thở vào, biết tâm này còn phiền động. Hơi thở ra, biết tâm này còn phiền
động.

VIII. XẢ THIỀN.
– Chúng ta nguyện thương yêu tất cả chúng sinh.
– Chúng ta nguyện giúp cho mọi người thực hành thiền và an vui trong
chánh pháp.
Sau đó, thực hiện xoa bóp như sau:
– Cúi đầu lên xuống chừng 5 đến 10 lần. Xoay đầu qua lại chừng 5 đến 10 lần.
– Chuyển động vai lên xuống theo hình tròn chừng 5 đến 10 lần.
– Xoay toàn thân dựa trên trục eo lưng, mỗi bên chừng 5 đến 10 lần.
– Xoa bóp hai bàn tay và hai cánh tay. Chà xát hai bàn tay nhiều lần cho nóng,
rồi áp vào đôi mắt. Chà xát hai bàn tay rồi xoa đầu, mặt, hai tai, cổ, gáy …
chừng 30 giây.
– Chà xát ngực, bụng, sườn và lưng.
– Duỗi chân ra, xoa bóp nhẹ nhàng.
– Ngồi lại tại chỗ một chút cho thoải mái.

IX. KINH HÀNH.
Tiếp tục giữ tâm yên tĩnh và biết rõ hơi thở ra vào theo từng bước chân.