NHỮNG CÂU KINH TRONG CUỘC SỐNG

Những câu Kinh được chép vào khắp nơi trong cuộc sống, nhưng chỉ những người đủ duyên, đủ tĩnh lặng, mới có thể đọc được.

Câu kinh “vô thường” được chép vào những giọt sương mai đầu cành, chép vào tia chớp thoáng qua ngang trời ngày giông gió. Chép vào cánh hoa rơi. Chép vào dòng nước chảy. Chép vào đám mây chiều tan hợp cuối trời. Chỉ một sát na, còn đó mất đó. Mong manh, ngắn ngủi. Vô thường.

Câu kinh “vô ngã” được chép vào những con sóng bạc đầu đuổi nhau trên mặt biển. Sóng là nước trong ngày bình yên, nước là sóng trong ngày bất an. Chỉ do lòng nổi gió mà thành khác nhau, nước lao xao thành sóng rồi vỡ tan. Vô ngã.

Câu kinh “vô nhiễm” được chép vào những cơn gió đi khắp thế gian. Ai nhuộm màu được cơn gió? Ai làm bẩn được cơn gió? Chép vào đóa sen trắng tinh khôi ngoài hiên. Vô nhiễm.

Câu kinh “vô trước” (không vướng bận) được chép vào lòng hư không. Nhỏ như hạt bụi chiếc lá cánh chim, to lớn như mặt trăng mặt trời, đi ngang qua lòng hư không cũng không để lại một dấu vết gì. Vô trước, không vướng mắc, những bước chân qua.

Và câu kinh “sắc không” chép vào vệt nắng ngoài hiên; vệt nắng có hình dạng, có thể hong khô được đôi tay, có thể nuôi lớn một ngọn cỏ dại, nhưng không ai có thể cầm giữ được. Có hay không? Có như không.

Rồi ai cũng sẽ có một ngày, đủ tĩnh lặng để đọc được những “câu kinh vô tự” như vậy, từ hôm ấy, cuộc sống bắt đầu đổi thay mãi.

LỜI DẠY CUỐI CÙNG của Đức Milarepa cho Đức Gampopa

Jetsun Milarepa là một vị Tăng phiêu bồng nổi tiếng nhất Tây Tạng,
đồng thời là một du ca. Ngài sống cách đây khoảng chín trăm năm trong
một hang đá ở Hi-mã-lạp sơn và đặt những bài ca kệ một cách bất ngờ,
không suy nghĩ, người đời sau viết lại thành sách và ngày nay, trong thế
kỷ 20, sách này đã được in ra nhiều thứ tiếng, để lại cho chúng ta.

Tương truyền rằng, Milarepa là người đạt giác ngộ hoàn toàn chỉ trong
một đời làm người, và bằng cách tu tập thiền định trong một cuộc sống
độc cư hàng chục năm trời. Trong thời gian tu tập ngài sống bằng một
loại rau mọc hoang, vì vậy da ngài mang màu xanh. Vì lẽ đó mà học trò
ngài, bên cạnh những cái tên tôn quý tặng ngài, còn gọi là ‘tu sĩ màu
xanh’. Đạo sư của Milarepa có tên là Marpa, một nhà tiên tri nổi tiếng, đã
từng thiền định mười bảy năm tại Ấn Độ và là người mang giáo pháp
“Đại Pháp Ấn” từ Ấn Độ qua Tây Tạng. Một trong những học trò giỏi
nhất của Milarepa là Gampopa mà câu chuyện sau đây kể về ông.


Gampopa là một y sĩ và đã là một Lạt-ma thông thái. Một ngày kia, ông
bỗng thấy linh ảnh của một vị Tăng sĩ màu xanh, tóc tai rối bù. Trong ảnh
đó, vị Tăng sĩ nhìn ông cười, mắt sáng long lanh và nhổ nước bọt vào mặt
ông. Không bao lâu sau đó, Gampopa bắt đầu du phương, đó là một điều
mà các vị Lạt-ma thỉnh thoảng vẫn làm.

Trên đường đi, ông bị lạc vào một vùng hẻo lánh của Hi-mã-lạp sơn và
quả nhiên gặp một người có da màu xanh, trông rất ốm yếu. Gampopa đi
từ từ đến vị Tăng sĩ ở trần, chắp tay chào hỏi, đó là người đầu tiên ông
gặp sau mấy ngày đi lạc. Milarepa nhếch mép cười khi thấy Gampopa
ngần ngừ bước vào. Không nói gì cả, Milarepa đưa cho Gampopa một cái
sọ người đựng đầy tràn một loại bia và yêu cầu Gampopa uống hết, theo
cách của Mật giáo bày tỏ phép tâm truyền tâm giữa thầy và trò.

Gampopa từ chối không uống, ông không thể uống rượu vì giới luật
không cho phép. Milarepa cười lớn, giống như trong linh ảnh đã hiện,
và nói ngay rằng, theo học một vị Phật đang hiện tiền tốt hơn bám giữ
vào một giới luật.

Ngay tại chỗ, Gampopa uống cạn một hơi. Sau đó Gampopa nhìn vào
mắt Milarepa và nhận ra rằng, linh ảnh đã biến thành sự thật: vị Tăng sĩ
giác ngộ này xem như đã nhổ vào mặt ông và đã trao truyền năng lực cho
kẻ thông thái nhưng chưa thực sự thức tỉnh đó. Cũng trong phút đó,
Mirarepa biết đã tìm ra truyền nhân của mình.

Sau đó, Gampopa ở lại với thầy mình nhiều năm, tu tập thiền định và
nghe giảng pháp. Một ngày kia, Milarepa cho hay Gampopa đã chín, đã
tới lúc rời thầy ra đi. Tới ngày từ giã thầy và xa thầy mãi mãi, Gampopa
quì dưới chân Milarepa, để cho vị đạo sư để hai chân lên đầu mình và
nhận một luồng chân khí, nhờ đó Gampopa đạt được tâm thức Đại viên
cảnh trí của Phật.

Sau buổi lễ này, Gampopa xin thầy cho một lời nhắn nhủ cuối cùng.
Milarepa nhún vai và nói: “Ngồi thiền thì ngươi còn phải ngồi nhiều và
thường xuyên, còn học thì tuyệt đối không còn gì để học nữa”.
Sau đó, Milarepa không nói gì nữa. Gampopa xuống núi, vừa đi qua
khởi một con suối thì nghe phía sau Milarepa kêu réo: “Ta còn một lời
dạy cuối cùng”, tiếng kêu lẫn trong tiếng suối reo. “Và lời này thật sự là
bí mật và thâm sâu, riêng giành chỉ dạy cho những bậc xuất sắc nhất trong
giới thượng căn”.

Gampopa yên lặng nín thở, tim đập thình thình. Milarepa quay lưng
lại, vén váy lên và cho Gampopa thấy mông đít đã đóng thành sẹo sau
nhiều năm ngồi trên đá. “Lời dạy cuối cùng của ta đây hãy nhớ”, Milarepa
kêu to.

Trích: Sử tử Tuyết bờm xanh
Nguyễn Tường Bách dịch

LỜI KINH TRONG LÒNG BÀN TAY

“Có kẻ dẫn một người mù vào khu rừng đầy gai rồi bỏ họ lại ở đó, về một mình. Vì bị mù, không nhìn thấy đường, nên rất khó để ra khỏi được khu rừng gai, nếu ra được cũng phải bị tổn thương rất nhiều, rất đau.

Cũng như vậy, khi bị tâm tham sân si chi phối, người đời không khác một người mù, không nhận thức được mọi chuyện, không nhìn rõ được vấn đề; tâm tham sân si là kẻ dẫn đường, dẫn người đời vào một khu rừng đầy gai, rồi bỏ họ lại ở đó, để họ tự thoát ra”.(1)

Khi không kiểm soát được tâm, chúng ta như một người mù.
Có kẻ bị tâm hận thù làm cho mờ mắt, không còn nhìn thấy được giá trị của tình thương đẹp đến thế nào; có người lại bị tâm tham làm cho mê muội, không còn cảm nhận được hơi ấm của sự sẻ chia đáng giá ra sao. Tham lam, hận thù, nhỏ nhen đến mức không còn biết gì, rồi mặc tình để chúng lôi kéo đi, mà đường trần ngoài kia lại đầy gai góc.

Trong cuộc sống, có những thứ chẳng mất tiền nhưng đòi hỏi con người phải trả giá bằng cả trái tim, có những sự chọn lựa là miễn phí nhưng bắt buộc phải trả giá bằng những bước chân đầy tổn thương để trở về.

Tạo hóa cho con người có hai mắt, để có thể nhìn một vấn đề từ nhiều phía: nhìn vào những việc đang làm trong hiện tại rồi nhìn đến tương lai để thấy kết quả của chúng sẽ hình thành; nhìn vào nỗi buồn đang hiện hữu rồi nhìn lại hôm qua để thấy nguyên nhân nỗi buồn đó bắt đầu từ đâu; nhìn vào lòng mình rồi nhìn vào lòng người để hiểu được mức sát thương của một lời nói ác…. nhưng lắm khi chúng ta lại từ chối nhìn cuộc sống từ nhiều phía, có hai mắt nhưng chẳng dùng, nên thường thấy cuộc sống bị nghiêng.

Khi đôi chân đã bị quá nhiều vết thương, nó sẽ biết cách cẩn thận hơn trong từng bước đi. Khi trái tim đã đau đến cùng cực, nó sẽ bắt đầu lành trở lại. Gai góc ngoài kia, cuối cùng, vẫn không đáng sợ bằng những gai góc trong lòng người.

Người đời, có lẽ chẳng mấy ai nhìn thấy bản thân mình đang mang đầy gai nhọn, ở xa thì vừa buồn vừa lạnh, nhưng mỗi khi đến gần lại vô tình làm tổn thương nhau.

Mong mọi người luôn an.

Vô Thường.

Núi.10.11.2020
Om Mani Padme Hum

_______________________
[1] Dịch ý từ một đoạn kinh, từ dòng thứ 9 đến dòng 13, khung thứ hai, trang 582, bộ kinh mang mã số 374, 大般涅槃經 (kinh Đại Bát Niết-bàn), tập 12 大正新脩大藏經。

P/s: Này Người! Đi đâu làm gì cũng nghĩ mình là con của Phật.